Địa chỉ: 12A03, Tòa 24T2, Hoàng Đạo Thúy, Cầu Giấy, HN
Quý khách liên hệ với chúng tôi
0911771155
Luathoangsa@gmail.com
ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT HOÀNG SA
Địa chỉ: 12A03, Tòa 24T2, Hoàng Đạo Thúy, Cầu Giấy, HN
Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội (điều 369)
Điều 369. Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội.
1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Không truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng;
b) Đối với 02 người đến 05 người;
c) Người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự bỏ trốn hoặc thực hiện hành vi cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng;
d) Dẫn đến việc người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự trả thù người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị hại, nhân chứng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Đối với 06 người trở lên;
b) Không truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
c) Người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự tiếp tục thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
d) Làm người bị hại tự sát.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
BÌNH LUẬN KHOA HỌC
1. Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng không khởi tố, không truy tố người mà mình biết rõ là có tội.
2. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm:
Chủ thể của tội phạm này tương tự như chủ thể của tội phạm truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội bao gồm: Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra; Viện kiểm sát. Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Điều tra viên; kiểm sát viên.
Ngoài những người trên, đối với người phạm tội ít nghiêm trọng còn có thể còn có người có thẩm quyền của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, Kiểm ngư và cơ quan khác của công an nhân dân, quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng hình sự. Đây là đặc điểm khác với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, vì truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội thì chỉ những người có thẩm quyền như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Điều tra viên; Kiểm sát viên, mới thực hiện được, nhưng đối với tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội thì không chỉ những người trên, mà còn cả những người có trách nhiệm trong việc phát hiện, bắt giữ tội phạm nhưng đã cố tình bỏ lọt tội phạm, bởi vì nếu không bắt giữ, không khởi tố vụ án thì những người có thẩm quyền sẽ không khởi tố bị can được.
Cũng như đối với chủ thể của tội truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người không có tội không bao gồm Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân.
Trường hợp, Điều tra viên, Kiểm sát viên cố tình không truy cứu trách nhiệm người có tội theo mệnh lệnh của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, mặc dù trước đó đã báo cáo, đề xuất ý kiến “ phải khởi tố, phải kết luận điều tra, phải truy tố” nhưng không có ý kiến phản bác, bảo lưu hoặc báo cáo lên cấp trên mà vẫn đồng tình với quyết định của cấp trên thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “ không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội” . Tuy nhiên, khi xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người này thì cần xem xét giữa họ với Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng viện kiểm sát. Nếu đó là mối quan hệ quá lệ thuộc, mà điều tra viên hoặc kiểm sát viên không còn cách nào khác buộc phải chấp hành thì được coi là phạm tội do bị ép buộc, cưỡng bức và được xem xét nhẹ miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.
Trường hợp Điều tra viên, Kiểm sát viên cố tình không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội theo quyết định của thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng viện kiểm sát, nhưng trước đó đã đề xuất ý kiến “ phải khởi tố, phải kết luận điều tra, phải truy tố ” và đã bảo lưu ý kiến, đồng thời báo cáo lên Thủ trưởng cơ quan điều tra cấp trên hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên về ý kiến của mình thì không phạm tội này.
Trường hợp người có thẩm quyền như: Thủ trường,Phó thủ trưởng cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng viện kiểm sát quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, không ký bản kết luận điều tra, không ra bản cáo trạng truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội những không biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là có tội mà chỉ có Điều tra viên, Kiểm sát viên biết rõ là có tội thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng viện kiểm sát không phải là chủ thể của tội phạm này, mà tùy trường hợp cụ thể họ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 360 Bộ luật hình sự.
Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là tội phạm không chỉ xâm phạm đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng, mà còn xâm phạm đến nguyên tắc xử lý “mọi hành vi phạm tội phải bị phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”. Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là tội cố ý bỏ lọt tội phạm và do đó còn xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, xã hội và của công dân. Tuy nhiên, về chính sách hình sự, hành vi bỏ lọt tội phạm không chỉ bị coi là nguy hiểm như hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Điều này thể hiện ở mức hình phạt quy định trong khung hình phạt của điều luật. Mức hình phạt cao nhất của tội này là 12 năm tù, tỏng khi đó mức hình phạt cao nhất của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là 15 năm tù.
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội, có thể thực hiện một trong các hành vi sau:
Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng cơ quan điều tra ra quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can, không kết luận điều tra vụ án, ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra đối với người mà mình biết rõ là có tội.
Điều tra viên không lập hồ sơ vụ án; không triệu tập bị can hoặc có triệu tập nhưng không tiến hành hỏi cung và những người tham gia tố tụng khác; không quyết định áp giải bị can; không thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ; không tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực hiện điều tra; không tiến hành các hoạt động điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan điều tra.
Viện trưởng, Phó viện trưởng việm kiểm sát ra quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can; ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; quyết định không phục hồi điều tra; quyết định không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra; không yêu cầu cơ quan điều tra thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, không quyết định việc truy tố.
Kiểm sát viên không kiểm sát việc khởi tố, không kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra; không đề ra yêu cầu điều tra; không triệu tập và hỏi cung bị can; không triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; không kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam; không tham gia phiên tòa; không đọc cáo trạng, quyết định của viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; không hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội.
Khác với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, đối với tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội bao gồm cả hành vi không khởi tố vụ án của người có thẩm quyền, vì nếu không khởi tố vụ án thì cũng không có căn cứ để khởi tó bị can. Tuy nhiên, hành vi không khởi tố vụ án chỉ cấu thành tội phạm khi hành vi đó liền ngay trước hành vi khởi tố bị can, nếu không khởi tố vụ án thì khong thể khởi tố bị can được, nếu chưa xác định được bị can mà không khởi tố vụ án hoặc hành vi không khởi tố vụ án của người chỉ có thẩm quyền khởi tố vụ án, chứ không có thẩm quyền khởi tố bị can thì không cấu thành tội phạm này như: những người có thẩm quyền của bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư và cơ quan khác của công an nhân dân, quân đội nhân dân được giao nhiệm vụtiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại Điều 164 của Bộ luật tố tụng hình sự (trừ trường hợp những người có thẩm quyền trong các cơ quan này được khởi tố bị can đối với tội phạm ít nghiêm trọng); Hội đồng xét xử khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự. Nếu những người này không khởi tố vụ án thì những người có thẩm quyền như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng viện kiểm sát; Điều tra viên, Kiểm sát viên vẫn có quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Trong trường hợp cố tình không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội bằng cách lấy bới hoặc thêm vào hồ sơ vụ án những tài liệu tình tiết gỡ tội cho người phạm tội haowjc sửa chữa tài liệu trong hồ sơ vụ án để làm căn cứ đình chỉ vụ án đối với người có tội thì người có hành vi này bị truy cứu trách nhiệm sự về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 375 Bộ luật hình sự, vì hành vi này được quy định thành một tội độc lập và tội làm sai lệch hồ sơ vụ án là tội nặng hơn so với tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội.
b. Hậu quả
hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả xảy ra thì tùy trường hợp, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 2 hoặc Khoản 3 của điều luật.
c. Các dấu hiệu khách quan
cũng như đối với tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, điều luật không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng việc xác định thế nào là người có tội là vấn đền rất cần thiết khi xác định hành phạm tội.
Người có tội với người bị coi là có tội là khác nhau. Người có tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, toàn toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Có tội là một hiện tượng khách quan và theo quy định của Bộ luật hình sự thì hành vi đó đã cấu thành tội phạm, còn người bị coi là có tội là người bị tòa án kết án bằng một bản án và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật; trong số những người bị tòa án kết án có thể có người không vó tội, nhưng về mặt pháp lý thì người đó vẫn bị coi là có tội.
Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội có thể không truy cứu tất cả các tội phạm mà họ thực hiện hoặc không truy cứu một hoặc một số tội phạm mà họ thực hiện còn các tội phạm khác vẫn truy cứu. Ví dụ: B phạm tội giết người và tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, nhưng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng còn tội giết người thì không bị truy cứu.
Người phạm tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý (cố ý thực tiếp), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của người mà mình không truy cứu là hành vi phạm tội, nhưng cố tình không truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều luật quy định” biết rõ là có tội” tức là, người phạm tội phải biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sưn là có tội; nếu vì lí do khách quan hoặc do tình độ nghiệp vụ non kém mà người có thẩm quyền không biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là có tội, thì cũng không phạm tội này.
Biết rõ là có tội là tự bản thân người có thẩm quyền biết, nhưng cũng có trường hợp do người khác nói cho biết, nhưng vẫn cố tình không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội. Đây là vấn đề phức tạp không phải mọi trường hợp đều xác định được ý thức chủ quan của người phạm tội . Thông thường, khi đã có chủ ý không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, người phạm tội thường đổ lỗi do trình độ, do nhận thức và theo họ thì không có tội.
Trường hợp Viện kiểm sát, hoặc tòa án trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung vì còn lọt người lọt tội hoặc phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nặng hơn, nhưng Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát vẫn giữ quan điểm không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mà viện kiểm sát hoặc tòa án cho là có tội.
Trường hơp Viện kiểm sát hoặc tòa án trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung vì còn lọt người lọt tội hoặc phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nặng hơn nhưng Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát vẫn giữ quan điểm không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mà Viện kiểm sát hoặc Tòa án cho là có tội. Trong số này có nhiều trường hợp Tòa án cấp giám đốc thẩm phải hủy bản án để điều tra, truy tố lại nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có tộ mà Cơ quan quan điều tra hoặc Viện kiểm sát không truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy đối với trường hợp này, có coi hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự của người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát là hành vi biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là có tội hay không: Thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào tương tự bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội, vì người có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát đều lấy lý do là do trình độ, do nhận thức chứ không phải cố ý. Tuy nhiên, với tinh thần cải cách pháp lý hiện nay, nếu có cắn cứ xác định người có thẩm quyền đã biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là người có tội mà viện lý do trình độ hoặc dùng “quyền” của mình để không tủy cứu trách nhiệm hình sự người có tội đã được cấp giám đốc thẩm kết luận là có tội thì cũng cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người này về tội “không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội” mới có tác dụng đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay.
Nếu người có thẩm quyền do thiếu trách nhiệm kiểm tra , để cho cấp dưới báo cáo sai dẫn đến không quyết định khởi tố, kết luận điều tra hoặc không truy tố người có tội mà gây hậu quả nghiêm trọng thì tùy trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 360 Bộ luật hình sự.
Quý khách liên hệ với chúng tôi
Đặt câu hỏi miễn phí