Hoàn thiện quy định pháp lý về phát mại tài sản, xử lý nợ xấu ngân hàng

ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT HOÀNG SA

Địa chỉ: 12A03, Tòa 24T2, Hoàng Đạo Thúy, Cầu Giấy, HN

Hoàn thiện quy định pháp lý về phát mại tài sản, xử lý nợ xấu ngân hàng.


Trong những năm gần đây, vấn đề xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng, được Chính phủ quan tâm chỉ đạo, các Bộ, ngành và cơ quan liên quan phối hợp cùng triển khai thực hiện. Tuy nhiên, quá trình xử lý nợ xấu còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do thiếu các quy định pháp luật; do quy định của pháp luật không phù hợp; do các quy định không đồng bộ, gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện.

 

1. Thiếu quy định của pháp luật

Một trong những bất cập lớn nhất hiện nay đối với quá trình xử lý tài sản bảo đảm thông qua phương thức khởi kiện, thi hành án là thời gian kéo dài, gây tốn kém cho TCTD; chưa có quy định cụ thể, chặt chẽ về các bước của quá trình tố tụng của Bộ luật tụng dân sự (Bộ luật TTDS) và các quy định liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm, cụ thể:

a) Chưa có hướng dẫn về trình tự, thủ tục, thời hạn Tòa án giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn

Điều 191 Bộ luật TTDS quy định “Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn.” Tuy nhiên, Bộ luật TTDS cũng như Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP không quy định cụ thể thủ tục, thời hạn giải quyết những vụ án bị tạm đình chỉ được tiếp tục giải quyết như thế nào, dẫn đến chậm trễ trong việc giải quyết vụ án.

b) Chưa có quy định về trình tự, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

Trong nhiều trường hợp, khách hàng vay là doanh nghiệp, khi bị phá sản, người lao động ngừng việc, chủ doanh nghiệp bỏ trốn; khách hàng vay là cá nhân thường thay đổi địa chỉ liên lạc mà không thông báo cho TCTD, bất hợp tác, không tham gia quá trình giải quyết của Tòa án. Trong những trường hợp này, việc triệu tập bị đơn tham gia hòa giải là không thể và không cần thiết. Việc ban hành trình tự tố tụng dân sự rút gọn sẽ giúp các bên liên quan tiết kiệm chi phí, đẩy nhanh tiến độ thu hồi nợ thông qua con đường tố tụng.

c) Chưa có quy định cụ thể về thời gian hòa giải

Bộ luật TTDS và các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) không có quy định về thời gian của mỗi phiên hòa giải, số lần được hoãn hòa giải. Do đó, thời gian hòa giải thường kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan.

d) Chưa có hướng dẫn cụ thể về thủ tục giải chấp từng phần

Trong quá trình xử  lý TSBĐ, một số khách hàng nộp tiền thanh toán đề nghị giải chấp TSBĐ từng  phần, một số khách hàng đề nghị tách sổ nhằm chia nhỏ TSBĐ là bất động sản để bán. Tuy nhiên, do pháp luật chưa có quy định về thủ tục giải chấp từng phần, nên TCTD gặp khó khăn trong việc thực hiện những thủ tục trên.

e) Chưa có quy định về điều kiện kinh doanh đối với hoạt động dịch vụ mua bán nợ

Theo quy định tại Luật Đầu tư 2014, hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định về điều kiện đối với ngành nghề kinh doanh này. Do vậy, các doanh nghiệp không thể tiến hành đăng ký kinh doanh ngành nghề này, ảnh hưởng đến hoạt động bán nợ của TCTD do không có doanh nghiệp được mua nợ.

 

2. Quy định pháp luật không phù hợp

Thứ nhất, quy định về phí thi hành án bất hợp lý

Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án phải nộp phí thi hành án với mức 3%. Quy định này vô hình chung khuyến khích người phải thi hành án chây ỳ, không tự nguyện thi hành án, kéo dài thời gian thi hành án, xâm phạm quyền lợi của người được thi hành án. Trong bối cảnh TCTD không thể thu hồi đủ nợ, mức phí thi hành án sẽ gây thêm khó khăn về tài chính cho TCTD.

Thứ hai, quy định về kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp

Theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, Chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, việc kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp để thực hiện nghĩa vụ thi hành án khác, xét về mặt thực tế sẽ xâm phạm quyền lợi hợp pháp của bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, cụ thể như sau: (i) TCTD phải thu hồi nợ trước hạn dẫn đến TCTD mất một khoản doanh thu đáng lẽ sẽ thu được theo hợp đồng tín dụng, ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của TCTD; (ii) Việc kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp cũng sẽ làm mất nguồn sinh lời từ chính TSBĐ, là nguồn thu của bên bảo đảm và nguồn trả nợ cho TCTD; việc kê biên cũng làm giảm giá trị của TSBĐ tại TCTD; (iii) Sau khi cơ quan thi hành án kê biên tài sản thế chấp tại TCTD, khách hàng vay thường không có động lực để thực hiện đúng theo hợp đồng tín dụng đã ký kết, dẫn tới nợ xấu phát sinh.

Thứ ba, quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán tiền thi hành án

Khoản 3 Điều 47 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định: “Số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bán tài sản mà Bản án, quyết định tuyên kê biên để đảm bảo thi hành một nghĩa vụ cụ thể được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm đó sau khi trừ các chi phí về thi hành án”. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, khi xử lý tài sản thế chấp mà tài sản thế chấp sau khi trừ các chi phí về thi hành án không đủ trả nợ vay cho TCTD và tiền án phí người bị kiện chưa thi hành, cơ quan thi hành án thường yêu cầu TCTD ưu tiên thu tiền án phí trước (để hoàn thành nghĩa vụ thu ngân sách nhà nước) dẫn đến TCTD đã không thu hồi đủ nợ gốc lại bị trừ rất nhiều chi phí liên quan.

Thứ tư, quy định về nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân

Theo quy định của Bộ Tài chính, cơ quan thu thuế thường thực hiện khấu trừ thuế ngay trước khi thực hiện ưu tiên thanh toán khoản nợ cho TCTD và VAMC. Thực tế cho thấy, đối với TCTD khi xử lý TSBĐ, khoản tiền thu được từ việc bán TSBĐ thường không đủ để trả nợ vay. Thậm chí, trường hợp bên bảo đảm còn nợ thuế GTGT/thuế thu nhập doanh nghiệp và các thuế khác không liên quan đến việc bán TSBĐ nhưng khi TCTD bán TSBĐ thì cơ quan thuế yêu cầu phải trả nợ thuế trước thì mới xác nhận nghĩa vụ tài chính để chuyển nhượng tài sản. Quy định về việc nộp thuế trước khi thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm là không phù hợp do các khoản nợ TCTD là nợ có TSBĐ, có mức độ ưu tiên hơn các khoản nợ thuế là nợ không có TSBĐ. Nếu phải nộp các khoản thuế trước khi thực hiện nghĩa vụ ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo đảm là TCTD sẽ gây ảnh hưởng đến số nợ thu hồi được của TCTD.

Thứ năm, mâu thuẫn giữa Bộ luật TTDS và BLDS về thời hiệu khởi kiện

Theo quy định tại Điều 159 Bộ luật TTDS, thời hiệu tính từ thời điểm tính là ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Tuy nhiên, Điều 427 BLDS quy định về thời hiệu khởi kiện được tính từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, tổ chức bị xâm phạm. Quy định tại Bộ luật TTDS là phù hợp và đảm bảo được quyền lợi các bên liên quan. Tuy nhiên, trường hợp Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định tại BLDS thì sẽ ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của TCTD.

 

3. Các quy định không đồng bộ

Việc xử lý nợ xấu không chỉ gặp vướng mắc do cơ sở pháp lý chưa đồng bộ, bất cập mà còn gặp phải những khó khăn, bất cập do chính cách hiểu và áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là Tòa án, Viện Kiểm sát. Thực tiễn vừa qua cho thấy, nhiều giao dịch bảo đảm các TCTD thực hiện đúng theo quy định của pháp luật nhưng có nguy cơ bị tuyên vô hiệu do cách hiểu không đúng của một số Tòa án.

Thứ nhất, tòa án hiểu sai quy định pháp luật về giao dịch dân sự với chính mình khi một cá nhân ký với hai tư cách trong hợp đồng bảo đảm

Khoản 5 Điều 144 BLDS quy định: “Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Đồng thời, pháp luật về giao dịch bảo đam cho phép một người dùng tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ người khác. Trong hoạt động cấp tín dụng, trường hợp người đại diện của doanh nghiệp (bên bảo đảm) dùng tài sản cá nhân để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp do mình làm đại diện (bên vay vốn), khi ký hợp đồng bảo đảm, các bên thường thỏa thuận cả ba bên ký hợp đồng bảo đảm gồm bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm và bên vay vốn để đảm bảo tính minh bạch. Việc ký hợp đồng ba bên này không trái với quy định tại Khoản 5 Điều 144 BLDS vì giao dịch bảo đảm là giao dịch giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, bên vay vốn không có quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng bảo đảm, quyền và nghĩa vụ của bên vay vốn được thể hiện trong hợp đồng tín dụng.

Tuy nhiên, trên thực tế nhiều Tòa án lại cho rằng trường hợp người đại diện của doanh nghiệp dùng tài sản cá nhân để bảo đảm nghĩa vụ cho doanh nghiệp do mình đại diện để vay vốn là vi phạm quy định tại Khoản 5 Điều 144 BLDS năm 2005 và tuyên vô hiệu hợp đồng này dẫn đến khoản vay của TCTD từ bảo đảm trở thành không có bảo đảm.

Thứ hai, tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định

Theo quy định tại Bộ luât TTDS, TCTD có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp này thường phụ thuộc vào ý chí của Thẩm phán. Do đó, trên thực tế, trong quá trình Tòa án xét xử vụ án dân sự, bị đơn có hành vi tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Song việc TCTD yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 102 Bộ luật TTDS là rất khó khăn, dẫn đến không phải trường hợp nào nguyên đơn cũng thực hiện được quyền ngăn chặn bị đơn tẩu tán tài sản.

Thứ ba, tòa án áp dụng không đúng về quy định lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm hợp đồng trong hợp đồng tín dụng

Việc TCTD và khách hàng thỏa thuận lãi suất nợ quá hạn đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc, phạt chậm trả đối với nợ lãi và phạt vi phạm các nghĩa vụ khác theo hợp đồng là phù hợp với quy định của BLDS và các văn bản quy phạm pháp luật của NHNN. Việc thỏa thuận các biện pháp này là hoàn toàn cần thiết, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên khi tham gia hợp đồng tín dụng, mang các mục đích khác nhau.

Tuy nhiên, trên thực tế các Tòa án có các cách hiểu khác nhau về phạt chậm trả. Theo đó, có Tòa án không chấp nhận việc TCTD và khách hàng thỏa thuận áp dụng cả lãi suất nợ quá hạn đối với nợ gốc và phạt vi phạm hợp đồng tín dụng đối với nghĩa vụ chậm trả lãi, có Tòa án chấp nhận thỏa thuận này, gây khó khăn cho TCTD trong quá trình xử lý nợ.

Thứ tư, tòa án hiểu không đúng về biện pháp thế chấp và biện pháp bảo lãnh

Trên thực tế, một số Tòa án, Viện kiểm sát các cấp còn có cách hiểu chưa chính xác về biện pháp thế chấp và bảo lãnh. Khi xét xử, một số thẩm phán, kiểm sát viên cho rằng biện pháp thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ người khác là biện pháp bảo lãnh và tuyên vô hiệu các hợp đồng thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ người khác dù các hợp đồng thế chấp này đã được công chức, đăng ký thế chấp đúng quy định của pháp luật, dẫn đến hợp đồng tín dụng từ có TSBĐ thành không có TSBĐ và có nguy cơ làm vô hiệu hàng loạt hợp đồng thế chấp QSDĐ của bên thứ ba trong toàn hệ thống các TCTD.

Việc Tòa án ra phán quyết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp vô hiệu là không phù hợp với các quy định của pháp luật về thế chấp bằng QSDĐ của Bên thứ ba, điều này đã, đang và sẽ gây nên sự xáo trộn lớn trong đời sống xã hội và gây bất lợi cho các TCTD.

Thứ năm, tòa án áp dụng không đúng quy định về xử lý TSBĐ của bên thứ ba khi doanh nghiệp bị phá sản

Căn cứ quy định tại Điều 355 BLDS, trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì tài sản thế chấp được xử lý theo phương thức thỏa thuận hoặc bán đấu giá theo quy định pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Việc xử lý TSBĐ không phân biệt là tài sản thế chấp của bên chính bên vay hay của bên thứ ba.

Tuy nhiên, trường hợp doanh nghiệp vay bị phá sản, TCTD yêu cầu Tòa án xử lý cả TSBĐ của bên thứ ba thì Tòa án từ chối và đề nghị khởi kiện tại một vụ án khác. Khi đã có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, TCTD tiếp tục khởi kiện yêu cầu xử lý TSBĐ của bên thứ ba nhằm thu hồi vốn có Tòa án lại không thụ lý với lý do nghĩa vụ (khoản nợ) không còn tồn tại (do doanh nghiệp không còn tồn tại và theo luật đã được xoá nợ). Điều này đã tước bỏ quyền hợp pháp và gây thiệt hại cho TCTD, cần được sớm tháo gỡ.

Thứ sáu, vướng mắc do Tòa án hiểu không đúng quy định của BLDS về một tài sản có thể đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ tín dụng

Căn cứ các quy định nêu trên, việc các bên thỏa thuận nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm cả các nghĩa vụ phát sinh trong tương lai (các nghĩa vụ tại các hợp đồng tín dụng được ký kết sau ngày ký hợp đồng bảo đảm) là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật.

Khi phát sinh tranh chấp liên quan đến yêu cầu phát mãi TSBĐ để đảm bảo cho nghĩa vụ của hợp đồng tín dụng được ký sau ngày ký hợp đồng thế chấp thì thẩm phán không chấp nhận vì cho rằng hợp đồng thế chấp chỉ được đảm bảo cho hợp đồng tín dụng đã được ký kết vào thời điểm ký hợp đồng thế chấp. Việc các Thẩm phán không chấp nhận một TSBĐ cho các nghĩa vụ của hợp đồng tín dụng được ký kết sau ngày ký hợp đồng thế chấp là không phù hợp với quy định tại Điều 344 BLDS quy định: “Thời hạn thế chấp do các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì việc thế chấp có thời hạn đến khi chấm dứt nghĩa vụ được bảo đảm” và Khoản 5 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm cả nghĩa vụ hình thành trong tương lai.

Thứ bảy, tổ chức bán đấu giá yêu cầu việc bán đấu giá tài sản bảo đảm phải có văn bản  ủy quyền bán đấu g

Khoản 4 Điều 58 Nghị định 163/2006/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 11/2012/NĐ-CP) quy định: “Người xử lý tài sản căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tiến hành xử lý TSBĐ mà không cần phải có văn bản ủy quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm”.

Tuy nhiên, các trung tâm bán đấu giá vẫn yêu cầu việc bán TSBĐ phải có đồng ý của bên bảo đảm. Do đó, trường hợp khách hàng bỏ trốn, không hợp tác, không ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá thì TCTD không thể ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá với Trung tâm bán đấu giá. Do đó, việc bán đấu giá không thể thực hiện được, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của TCTD.

Thứ tám, vướng mắc trong việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 Thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 hướng dẫn một số vấn đề về xử lý TSBĐ (Thông tư liên tịch 16), bên nhận bảo đảm được ký các hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản nếu bến bảo đảm không tự nguyện ký các giấy tờ này. Tuy nhiên, trên thực tế, một số công chứng viên vẫn yêu cầu TCTD chỉ được ký hợp đồng với tư cách là bên bán TSBĐ nếu có văn bản ủy quyền hợp pháp của chủ sở hữu tài sản và giá bán phải được sự đồng ý của chủ sở hữu. Điều này đã gây khó khăn cho TCTD vì khách hàng thường không hợp tác và không đồng ý ký văn bản ủy quyền dẫn đến tài sản không thể sang tên cho người mua.

Thông tư liên tịch 16 cũng quy định trường hợp nhận chính TSBĐ để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm thì hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản thỏa thuận khác về việc nhận chính TSBĐ để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm được sử dụng thay thế hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng TSBĐ. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu/quyền sử dụng tài sản không chấp nhận các giấy tờ chuyển quyền sở hữu/quyền sử dụng tài sản do bên nhận bảo đảm ký trong trường hợp bên bảo đảm không tự nguyện ký các giấy tờ này mà yêu cầu phải qua hợp đồng chuyển nhượng giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm.

Khoản 5 Điều 12 Thông tư liên tịch 16 cho phép công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng trước khi xóa đăng ký thế chấp. Tuy nhiên, trên thực tế các văn phòng QSDĐ đều yêu cầu TCTD phải xóa đăng ký thế chấp trước. Việc xóa đăng ký thế chấp trước khi chuyển nhượng dẫn đến khoản nợ của TCTD từ có TSBĐ thành không có TSBĐ.

Thứ chín, chấp hành viên chưa thực hiện đúng quy định về các thời hạn trong thi hành án

Luật thi hành án dân sự 2008 đã có các quy định về thời hạn ra quyết định thi hành án dân sự, thời hạn ra quyết định thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 36), thời hạn thông báo thi hành án (Điều 39), thời hạn cưỡng chế (Điều 46). Tuy nhiên, trên thực tế vì nhiều lý do khác nhau, vẫn còn tồn tại các trường hợp, Chấp hành viên chưa thực hiện đúng các quy định về thời hạn trong thi hành án dân sự  dẫn đến việc thi hành án hết sức chậm trễ, kéo dài.

Ngoài ra, khi tham gia vào quá trình tố tụng, TCTD còn gặp nhiều khó khăn khác do cách áp dụng pháp luật không đúng như Tòa án tuyên tạm đình chỉ giải quyết vụ án không đúng quy định; Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đình chỉ vụ án với căn cứ không đúng căn cứ pháp luật; Tòa án yêu cầu TCTD cung cấp địa chỉ của những người hiện đang sử dụng tài sản thế chấp tại thời điểm TCTD nộp hồ sơ khởi kiện; Tòa án yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu chứng cứ để chứng minh về vấn đề mà pháp luật quy định không phải chứng minh; Cơ quan thi hành án từ chối kê biên tài sản thế chấp không đúng quy định pháp luật.

 

3. Một số khuyến nghị

Từ những vướng mắc, bất cập nêu trên, chúng tôi xin đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, góp phần nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu của các TCTD như sau:

– Để khắc phục bất cập đã nảy sinh, ảnh hưởng đến việc xử lý nợ của TCTD, Bộ luật dân sự cần được bổ sung, sửa đổi các quy định sau đây: (i) Quy định cụ thể hơn về chủ thể ủy quyền và được ủy quyền là các cá nhân, pháp nhân; (ii) Bổ sung quy định hướng dẫn cụ thể về các tiêu chí xác định Hộ gia đình, thành viên Hộ gia đình tại Điều 106 BLDS và thống nhất với quy định pháp luật liên quan (Luật Đất đai); (iii) Bổ sung quy định cụ thể cho phép bên bảo đảm (bên thế chấp, cầm cố) có thể dùng tài sản của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác.

– Để đảm bảo việc xử lý TSBĐ được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, Bộ luật TTDS cần bổ sung các quy định về (i) Trình tự, thủ tục Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ tại Điều 191 không còn; (ii) Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án theo trình tự, thủ tục rút gọn; (iii) Thời hạn mỗi phiên hòa giải, số lần hoãn hòa giải trong tố tụng dân sự vào Điều 184; (iv) Trách nhiệm của Thẩm phán trong trường hợp không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định dẫn đến thiệt hại cho bên yêu cầu tại Điều 99; (v) Quy định về ủy quyền cho pháp nhân, kế thừa quyền, nghĩa vụ trong tố tụng.

– Nhằm khuyến khích các TCTD thực hiện xử lý nợ xấu và khuyến khích sự hợp tác của bên bảo đảm khi tham gia quá trình xử lý tài sản, Luật thi hành án dân sự cần sửa đổi bổ sung như sau: (i) Sửa đổi Khoản 3 Điều 47 theo hướng: Số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp phải được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm trước khi trừ các chi phí về thi hành án; (ii) Sửa quy định tại Điều 90 theo hướng: Việc kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp chỉ được thực hiện khi nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn, khoản tiền thu được từ việc bán TSBĐ phải ưu tiên thanh toán nghĩa vụ của bên bảo đảm; (iii) sửa đổi quy định tại Điều 60 theo hướng: Quy định người phải thi hành án chịu toàn bộ phí thi hành án, đồng thời áp dụng thêm các chế tài đối với các trường hợp cố tình kéo dài thời gian thi hành án như buộc phải trả lãi suất trả chậm…

– Bổ sung quy định tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm quy định về thủ tục giải chấp từng phần đối với tài sản là QSDĐ và tài sản gắn liền với đất.

– Bộ Tài chính cần xem xét sửa đổi quy định tại Điều 17 Thông tư 78/2014/TT-BTC, Điều 26 Thông tư 111/2013/TT-BTC theo hướng số tiền thu được từ việc bán TSBĐ sẽ được nộp thuế sau khi thanh toán nghĩa vụ với bên nhận bảo đảm.

– Chính phủ cần khẩn trương ban hành Nghị định quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ để tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh đối với ngành nghề này, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của sàn giao dịch mua bán nợ.

– Nâng cao hơn hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự. Trong đó cần tập trung tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có điều kiện thi hành của các TCTD. Việc thi hành án có hiệu quả sẽ giúp làm giảm thực chất nợ xấu của TCTD.


       QUÝ KHÁCH LIÊN HỆ VỚI CHÚNG TÔI

 Công ty Luật Hoàng Sa

  12A03, Tòa 24T2, Hoàng Đạo Thúy, Cầu Giấy, HN
  02466564319 - 0911771155
  Luathoangsa@gmail.com
        Hotline:  0911771155 (Luật sư Giáp)
Thong ke

Khách hàng tiêu biểu

Đặt câu hỏi miễn phí

loichaobatdau Luật Hoàng Sa 
Hỗ trợ trực tuyến
Mọi câu hỏi sẽ được trả lời, gọi Luật sư: 0911771155 (Zalo)