Địa chỉ: 12A03, Tòa 24T2, Hoàng Đạo Thúy, Yên Hòa, HN
Quý khách liên hệ với chúng tôi
0911771155
Luathoangsa@gmail.com
ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT HOÀNG SA

Địa chỉ: 12A03, Tòa 24T2, Hoàng Đạo Thúy, Yên Hòa, HN
Chế định về án treo trong pháp luật hình sự.
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.
1. Nhận thức về án treo.
2. Tính thời gian thời gian thử thách của án treo.
Hiện theo quy định tại Điều 4 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP, thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo như sau:
“Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo; cụ thể như sau:
1. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
2. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
3. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm.
4. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
5. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm bị hủy để điều tra lại và sau đó xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần sau theo hướng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.”
Từ nội dung hướng dẫn trên có thể thấy, với trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Như vậy là không công bằng giữa trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian bản án mà họ được hưởng án treo chưa có hiệu lực pháp luật với trường hợp người hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian bản án mà họ được hưởng án treo đã có hiệu lực pháp luật. Vì cả hai trường hợp này, đều có chung một hậu quả pháp lý là người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù mà Tòa án đã cho hưởng án treo và hình phạt đối với tội mới đã phạm.
Việc người được hưởng án treo, phạm tội mới trong thời gian mà bản án mà họ được hưởng án treo chưa có hiệu lực pháp luật lại buộc họ phải chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo là không đúng với tinh thần khoản 1 Điều 255 BLTTHS năm 2003, quy định về những bản án và quyết định của Tòa án được thi hành là: “… những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật…”
Từ cách tiếp cận vấn đề như vậy, theo tác giả có hai vấn đề đáng quan tâm sau: Một là,Ý nghĩa về thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo; Hai là, việc người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian bản án của Tòa án tuyên buộc họ hưởng án treo chưa có hiệu lực pháp luật, nhưng lại bắt buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của tội mới mà họ đã phạm và hình phạt tù của bản án được hưởng án treo. Vậy, liệu có trái với quy định tại khoản 1 Điều 255 BLTTHS và khoản 1 Điều 2 Luật THAHS không?
Trước hết, về ý nghĩa của thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo. Theo quy định tại Điều 60 BLHS hiện hành, người được Tòa án cho hưởng án treo phải chấp hành một thời gian thử thách, ít nhất là một năm, nhiều nhất năm năm. Khoản 1 Điều 60 BLHS quy định:“ Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.”. Theo tác giả, thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo là thời gian Nhà nước thực hiện sự kết hợp giữa trừng trị với giáo dục đối với người phạm tội bằng hình thức người được hưởng án treo tự sửa chữa lỗi lầm, tự cải tạo mình bằng cách tích cực học tập, lao động, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật dưới sự giám sát , giáo dục của nhân dân, chính quyền địa phương, của cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Mặt khác, thời gian thử thách cũng là thời gian có ý nghĩa về đấu tranh phòng ngừa tội phạm đối với người được hưởng án treo và đối với phòng ngừa tội phạm chung trogn xã hội. Cụ thể:
- Đối với người được hưởng án treo: Nếu họ tích cực học tập, lao động nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, không phạm tội mới thì họ sẽ không phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo. Hoặc vừa không phải chấp hành hình phạt tù nhưng được hưởng án treo, đồng thời, còn có thể được xem xét rút ngắn thời gian thử thách khi họ có đủ điều kiện do pháp luật quy định. Còn trường hợp họ không tự cải tạo thành người tốt, mà lại phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo và hình phạt của tội mới đã phạm.
- Đối với công tác phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội: Nói đến công tác phòng ngừa tội phạm là nói đến hoạt động phòng ngừa ngay đối với chính bản thân người đang hoặc sẽ có ý định phạm tội. Cũng không thể phủ nhận rằng, thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, quá trình người được hưởng án treo tự cải tạo trong thời gian thử thách tại địa phương nơi cư trú, nơi làm việc, học tập,…có tác động rất nhiều đến người đang hoặc sẽ có ý định phạm tội. Nghĩa là, họ sẽ tự nhận biết được rằng, nếu phạm tội mà được Tòa án cho hưởng án treo thì cũng đã tự đánh mất mình trong khoảng thời gian thử thách. Từ đó, họ đoạn tuyệt hẳn với ý định “xấu” mà họ định thực hiện và thông qua sự thức tỉnh, hướng thiện đó sẽ có tác động tích cực lôi kéo thêm những người khác có thể là bạn bè, người thân của họ, do vậy, sẽ rất có ý nghĩa hơn gấp nhiều lần nếu so với việc phải bắt người phạm tội đi chấp hành án phạt tù..
Tuy nhiên vấn đề được nhiều người quan tâm, với quy định hiện hành về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thánh án treo, có trái với Điều 255 BLTTHS không? Bởi có ý kiến cho rằng: Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách nhưng thời điểm phạm tội mới đang trong thời gian bản án chưa có hiệu lực pháp luật mà buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo và hình phạt của tội mới phạm là không đúng với quy định tại khoản 1 Điều 255 BLTTHS và khoản 1 Điều 2 Luật THAHS. Về vấn đề này, hiện có các quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất:
Quan điểm thứ hai:
- Về hướng dẫn, thời gian thử thách án treo tính từ ngày“bản án có hiệu lực pháp luật”, được thể hiện trong nội dung các văn bản sau: Thông tư số 2308-NCPL ngày 01/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS; Nghị quyết 02/HĐTP ngày 16/11/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Các hướng dẫn này sau một thời gian áp dụng đã nhận được sự phản hồi thiếu tích cực từ việc người được hưởng án treo đã phạm tội mới trong thời gian bản án chưa có hiệu lực pháp luật có chiều hướng gia tăng, nhưng Tòa án không có căn cứ để buộc họ phải chấp hành hình phạt tù được hưởng án treo, bởi Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn: Thời gian thử thách án treo tính từ ngày “bản án có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, hướng dẫn này rõ ràng đã không đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống và ngăn ngừa tội phạm.
- Về nội dung hướng dẫn về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo trong Nghị quyết số 1/HĐTP ngày 18/10/1990; Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 và Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cơ bản là giống nhau. Như vậy, hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách án treo là quá trình nhận thức để đáp ứng tốt hơn, phù hợp hơn với yêu cầu của công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
3. Có tổng hợp hình phạt tù có thời hạn với án treo.
Một là, HĐXX áp dụng Khoản 5 Điều 60 BLHS, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn của bản án trước.
Hai là, HĐXX áp dụng Điều 51 BLHS để tổng hợp hình phạt. Ví dụ: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2009/HS-ST ngày 20/5/2009 của Tòa án quân sự Khu vực 2 – QK Z, tuyên phạt Nguyễn Văn H. một năm tù về tội trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 138 BLHS, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là hai năm kể từ ngày 20/5/2009. Kế đến, ngày 07/12/2009 H. lại phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại điểm e Khoản 2 Điều 139 BLHS. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2010/HS-ST ngày 17/4/2010 Tòa án nhân dân Tp. MT, HĐXX quyết định áp dụng Điểm e Khoản 2 Điều 138 BLHS, xử phạt Nguyễn Văn H. 4 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì trong phần quyết định của bản án cần viết như sau:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H. phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng Điểm e, Khoản 2 Điều 139 BLHS;... xử phạt Nguyễn Văn H. 4 (bốn) năm tù;
Áp dụng Khoản 5 Điều 60 BLHS buộc Nguyễn Văn H. phải chấp hành hình phạt 01 (một) năm tù của bản án số 04/2009/HS-ST ngày 20/5/2009 của Tòa án quân sự Khu vực 2 – QK Z;
Áp dụng Khoản 2 Điều 51 BLHS tổng hợp hình phạt của hai bản án, buộc Nguyễn Văn H. phải chấp hành hình phạt chung là 05 (năm) năm tù thời hạn tù tính từ ngày...
Tuy nhiên, cũng từ thực tiễn xét xử do cách viết khác nhau của mỗi thẩm phán, nên làm cho nhiều người ngộ nhận rằng có việc “tổng hợp hình phạt tù có thời hạn với án treo”.Chẳng hạn như: Áp dụng Điểm e, Khoản 2 Điều 139 BLHS;...xử phạt Nguyễn Văn H. 04 (bốn) năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt 01(một) năm tù nhưng cho hưởng án treo của bản án số 04/2009/HS-ST ngày 20/5/2009 của Tòa án quân sự Khu vực 2 – QK Z, buộc Nguyễn Văn H. phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày...
Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định những trường hợp không được hưởng án treo và những trường hợp được hưởng án treo như sau:
1. Những trường hợp sau đây không cho hưởng án treo:
2. Những trường hợp được xem xét cho hưởng án treo:
Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
.jpg)
Quý khách liên hệ với chúng tôi
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 
                 Đặt câu hỏi miễn phí
                
                    
 Luật Hoàng Sa