Địa chỉ: 12A03, Tòa 24T2, Hoàng Đạo Thúy, Cầu Giấy, HN
Quý khách liên hệ với chúng tôi
0911771155
Luathoangsa@gmail.com
ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT HOÀNG SA
Địa chỉ: 12A03, Tòa 24T2, Hoàng Đạo Thúy, Cầu Giấy, HN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 77/2022/HS-PT NGÀY 09/08/2022 VỀ TỘI LỪA DỐI KHÁCH HÀNG
Ngày 09/8/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 58/2022/TLPT-HS ngày 15 tháng 06 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Công H, Trần Văn H1 do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2022/HS-ST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo:
1. PHẠM CÔNG H (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1988 tại tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKNKTT: 7xx/1x Ấp xx, phường PT, quận C, thành phố H; Nơi tạm trú: Tổ 25, phường HM, quận L, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Công Q và bà Đặng Thị K; Có vợ là Nguyễn Thị H2 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
2. TRẦN VĂN H1 (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1997 tại tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKNKTT: Xóm x (nay là Xóm x) xã S, huyện D, tỉnh Nghệ An; Nơi tạm trú: Tổ xx, phường HM, quận L, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn H3 và bà Lê Thị T; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đầu tháng 6/2020, Phạm Công H thành lập Công ty TNHH Thương mại và Sắt thép D có địa chỉ tại Lô xx-Bx-x, Khu số x Trung tâm đô thị mới T, phường HM, quận L, thành phố Đà Nẵng chuyên mua bán sắt thép xây dựng do H làm Giám đốc. Trong quá trình hoạt động, H tuyển dụng một số công nhân vào làm việc cho Công ty gồm: Trần Văn H1, Trần Anh Q (sinh năm: 1997, trú tại: xóm x, xã S, huyện D, tỉnh Nghệ An), Nguyễn Đăng D (sinh năm: 1990, trú tại: xóm x, xã S, huyện D, tỉnh Nghệ An) và người tên Hx (không rõ nhân thân, lai lịch).
Đầu năm 2021, Phạm Công H về Nghệ An chơi thì gặp N (không rõ nhân thân, lai lịch). Sau đó cả hai bàn bạc và thỏa thuận với nhau về việc N sẽ lập trang Facebook chuyên mua bán sắt thép để tìm khách hàng. Khi khách hàng đặt mua thì N sẽ điện thoại báo số lượng sắt thép để H bán cho khách. Đồng thời cả hai thỏa thuận khi có khách hàng mua sắt thép thì sẽ xuất thiếu số lượng sắt thép mà khách đã đặt, khi giao sắt thép cho khách sẽ dùng thủ đoạn gian dối trong việc đếm số lượng sắt (một cây sắt tính thành hai cây) nhằm thu lợi. H đã kể lại kế hoạch trên cho Trần Văn H1 và rủ H1 cùng tham gia thì H1 đồng ý. H phân công cho H1 trực tiếp khảo sát địa điểm và đếm số lượng sắt thép bàn giao cho khách hàng.
Vào ngày 30/3/2021, anh Đặng Phước H (sinh năm: 1992, trú tại: thôn B, xã HT, huyện V, thành phố Đà Nẵng) nhắn tin trên mạng xã hội facebook có tên “Tổng kho sắt thép xây dựng” của N để đặt mua sắt, thép xây nhà. Qua trao đổi, anh H mua số lượng sắt thép: sắt phi 18 số lượng 150 cây, sắt phi 16 số lượng 20 cây, sắt phi 12 số lượng 22 cây, sắt phi 10 số lượng 430 cây, sắt phi 06 là 200 kg, sắt phi 08 là 70 kg, đinh 20 kg, thép buộc 30 kg với tổng số tiền là 103.000.000 đồng thì được N đồng ý.
Sau khi có được khách hàng, N liên hệ với Phạm Công H để H làm thủ tục xuất hàng giao cho anh H. Đồng thời giữa Phạm Công H và N bàn bạc và thống nhất với nhau là chỉ xuất đủ số lượng sắt mà anh H đã đặt, riêng sắt phi 18 và sắt phi 10 thì xuất thiếu và dùng thủ đoạn gian dối trong việc đếm sắt giao cho khách hàng để chiếm đoạt tài sản. Sau đó, H đưa hóa đơn số lượng sắt H đã đặt cho Trần Văn H1 và trao đổi thống nhất với H1 khi giao hàng cho anh H thì dùng thủ đoạn gian dối 01 cây sắt đánh dấu và đếm thành 02 cây sắt thì H1 đồng ý, đồng thời nhận của H 01 sim điện thoại để liên lạc giao hàng cho anh H. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày H nói D điều khiển xe ô tô BKS: 51G-8xx.xx chở H1 đi đến nhà anh H để khảo sát trước khi giao hàng. Khảo sát xong, cả hai về lại Công ty. Khoảng 15 giờ cùng ngày, H điện thoại cho C (không rõ nhân thân, lai lịch) để thuê C chở sắt thì C đồng ý. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày C điều khiển xe ô tô cẩu tải BKS: 15C-1xx.xx đến để bốc sắt thép lên xe.
Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 31/3/2021, C điều khiển xe đi cùng với Trần Văn H1, Trần Anh Q và Hx, để giao sắt thép cho anh H. Trước khi đi, H đưa cho H1 01 lon sơn màu đỏ và nói với H1 cứ đếm và ghi hóa đơn đủ số lượng sắt thép mà anh H đã đặt. Khi đến nhà anh H giao sắt, H1 vừa chấm sơn vào đầu sắt và dùng thủ đoạn gian dối để đếm 01 cây sắt thành 02 cây sắt.
Sau khi giao hàng xong, H1 yêu cầu anh H ký vào hóa đơn và nhận 103.000.000 đồng rồi về đưa tiền cho H. H chia cho H1 1.000.000 đồng, cho Hà và Q mỗi người 200.000 đồng, trả 4.000.000 đồng thuê xe cho C, H chia cho N 15.000.000 đồng, còn 15.000.000 đồng H dùng tiêu xài cá nhân. Đối với sim điện thoại, sau khi giao hàng xong, trên đường về H1 đã vứt bỏ (không xác định được địa điểm).
Đối với anh H sau khi nhận sắt kiểm tra lại thì phát hiện số lượng sắt phi 18 chỉ có 70, thiếu 80 cây còn sắt phi 10 chỉ có 229 cây, thiếu 201 cây nên điện thoại cho H1 nhưng không liên lạc được. Do đó, anh H đến Cơ quan Công an trình báo sự việc.
Tại Kết luận số: 24/KL-HĐĐG ngày 04/6/2021 của Hội đồng định giá thường xuyên huyện Hòa Vang kết luận: 80 cây sắt phi 18 hiệu Hòa Phát, mỗi cây dài 11,7m có giá trị là 28.800.000 đồng; 201 cây sắt phi 10 hiệu Hòa Phát, mỗi cây dài 11,7m có giá trị là 20.502.000 đồng. Tổng tài sản định giá có giá trị: 49.302.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HS-ST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 198; điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Phạm Công H 15 tháng tù về tội “Lừa dối khách hàng”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 198; điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Quý khách liên hệ với chúng tôi
Đặt câu hỏi miễn phí