Vụ án lừa đảo, bị hại đồng ý sẽ đưa cho bị cáo 10 tỉ đồng nhưng trên thực tế, bị cáo mới nhận của bị hại 400 triệu

ĐOÀN LUẬT SƯ TP. HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT HOÀNG SA

Địa chỉ: 12A03, Tòa 24T2, Hoàng Đạo Thúy, Cầu Giấy, HN

Hỏi:

Lừa nhằm chiếm đoạt 10 tỉ, nhưng mới nhận 400 triệu đồng. Chịu trách nhiệm số tiền 10 tỉ hay 400 triệu đồng?

Vụ án lừa đảo, bị hại đồng ý sẽ đưa cho bị cáo 10 tỉ đồng nhưng trên thực tế, bị cáo mới nhận của bị hại 400 triệu đồng thì bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền chiếm đoạt là 10 tỉ hay 400 triệu đồng?

 

Đáp:

Ngày 13-5 vừa qua, VKSND Cấp cao tại Hà Nội ban hành thông báo rút kinh nghiệm về một vụ án lừa đảo do việc áp dụng pháp luật không đúng. Đó là vụ án Nguyễn K.K bị xét xử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 174 BLHS.

Theo hồ sơ, bị cáo Nguyễn K.K là đối tượng không có nghề nghiệp. Để có tiền tiêu xài, Nguyễn K.K dùng thủ đoạn gian dối thông qua việc nói với một số người quen là mình có mối mua thanh lý dây đồng, dây nhôm với giá rẻ rồi đem bán ra ngoài sẽ được hưởng lợi nhuận cao. Nếu góp vốn cho Nguyễn K.K thì Nguyễn K.K sẽ chia lợi nhuận 10%/1 tháng/tổng số tiền góp vốn.

Anh Nguyễn V.V đã tin tưởng, đồng ý sẽ góp vốn 10 tỉ đồng. Ngày 11-5-2021, anh V giao cho K 100 triệu đồng. Ngày 13-5-2021, anh V tiếp tục giao cho Khánh 300 triệu đồng thì K bị phát hiện, bắt quả tang.

Xử sơ thẩm tháng 11-2023, TAND TP. H xét xử bị cáo K về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm a, khoản 4, Điều 174 BLHS với cáo buộc bị cáo chiếm đoạt 10 tỉ đồng.

Sau đó, bị cáo kháng cáo. VKSND TP. H kháng nghị phúc thẩm theo hướng cần xem xét lại số tiền bị cáo bị cáo buộc đã chiếm đoạt, khung hình phạt áp dụng.

Ngày 12-4-2024, xử phúc thẩm, TAND Cấp cao tại Hà Nội đã sửa bản án hình sự sơ thẩm nêu trên. Theo đó, chỉ có căn cứ buộc bị cáo K lừa đảo chiếm đoạt của anh Đức số tiền 400 triệu đồng.

Theo VKSND Cấp cao tại Hà Nội, bản án sơ thẩm xét xử bị cáo K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a, khoản 3, Điều 174 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Không phải theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS như bản án sơ thẩm.

Như vậy, theo quy định của Điều 174 BLHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thì hành vi gian dối, nhưng phải thỏa mãn thực tế đã chiếm đoạt tài sản. Do đó, thực tế K chiếm đoạt số tiền 400 triệu đồng, Nên chỉ phải chịu trách nhiệm ở khoản 3 Điều 174 là đúng pháp luật, nguyên tắc có lợi cho bị cáo.


 

ĐIỀU 174. TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

 


       QUÝ KHÁCH LIÊN HỆ VỚI CHÚNG TÔI

 Công ty Luật Hoàng Sa

  12A03, Tòa 24T2, Hoàng Đạo Thúy, Cầu Giấy, HN
  02466564319 - 0911771155
  Luathoangsa@gmail.com
        Hotline:  0911771155 (Luật sư Giáp)
Thong ke

Khách hàng tiêu biểu

Đặt câu hỏi miễn phí

loichaobatdau Luật Hoàng Sa 
Hỗ trợ trực tuyến
Mọi câu hỏi sẽ được trả lời, gọi Luật sư: 0911771155 (Zalo)